Về Tác giả

Tôi là Nguyễn Quang Huy, biệt danh Huy Dell. Tôi là 1 Dược sĩ đam mê kinh doanh. Mong muốn của tôi là góp phần giúp xã hội trở nên tốt đẹp hơn bằng những giá trị của mình.

author

Thầy dạy thư pháp

Leave a Comment

 Gặp lại thầy dạy thư pháp sau 13 năm


Năm 2012, lúc đang học năm 2, tầm thời gian ra Tết, mình ra hồ Hoàn Kiếm dạo chơi thì gặp ông đang viết thư pháp ở đền Bà Kiệu đối diện đền Ngọc Sơn. Sẵn máu thích thú và tò mò về thư pháp (đúng hơn là ham mê về lịch sử và Nho học), thế là mình thử xin vào học và ông cũng đồng ý luôn. 

Bắt đầu học viết các nét, mài mực, chọn bút, chọn giấy,... Cứ buổi nào ko đi học hoặc không lên nhà thuốc (hồi đó mình còn xin thực tập bán thuốc tại nhà thuốc Dược khoa ở ngoài cổng trường Dược) là lại đạp xe ra đền Bà Kiệu với ông. Lâu lâu lại dành tiền gia sư mua ít hoa quả đến 2 ông cháu ăn. Có hôm ông lại dẫn về nhà ông ở Lãn Ông ăn cơm. Mình thấy cu cháu ông còn nhỏ, thế là hỏi xem có cần gia sư không, thế là dạy cho cu cậu môn Toán luôn. Cảm giác hồi đó thời gian gần như khít rìn rịt không có lúc nào rảnh rỗi cả. Học được mấy tháng, bắt đầu viết được vài chữ cơ bản thì nhà có sự cố, thế là phải xin ông nghỉ học. Bẵng 1 thời gian sau, đứa học trò vô tâm này cũng quên mất rằng mình còn có 1 người thầy 80 tuổi dạy mình về thư pháp và đời.

Cách đây mấy tuần, hôm sinh nhật, lại giật mình thấy ông nhắn tin chúc mừng sinh nhật trên Zalo (chắc Zalo đồng bộ danh bạ rồi kết bạn mà mình không để ý). Vậy là gọi ngay cho ông hỏi thăm. Biết rằng ông và bà (vợ thầy) dời từ Lãn Ông về quê Hưng Yên dưỡng lão. Vậy là phi xe qua gặp ông ngay. Rất vui mừng (trộm vía) là năm nay hơn 90 tuổi nhưng ông vẫn khỏe, còn giới thiệu phòng lưu niệm tại gia của ông. Ông vẫn kể được vanh vách lịch sử "làm nghề" và vài học trò của ông. 

Chia tay ông về cũng khá nhiều suy nghĩ. Thời buổi hỗn tạp và hoà tan văn hoá như bây giờ, trở về những giá trị cốt lõi là 1 điều tối quan trọng. Hẹn lịch lúc nào thư thả hơn về đầu óc sẽ học làm nhà Nho để răn dạy con cháu sau.









Read More

Vô thường

Leave a Comment

 Hôm nay, mới ngủ dậy lướt cầm điện thoại thì nhận ngay tin 1 người nổi tiếng trong giới doanh nhân mất do đột quỵ. Mấy hôm trước cũng vừa nghe tin một người anh quen xa xa mất do đột quỵ sau khi tập thể dục. Dù địa vị, tài sản, mối quan hệ của họ tuy khác nhau, nhưng cũng đều chung một kết cục: cái chết.

Mình có học Phật rồi nên cũng hiểu cuộc đời này là vô thường, nghĩa là không có gì cố định, mọi sự việc, hiện tượng đều sẽ biến đổi. Nên gặp những chuyện thế này cũng không đến nỗi phải sốc, chỉ đơn giản là hơi bất ngờ vì những sự vô thường đó đến hơi đột xuất. 

Cảm xúc đầu tiên là nỗi sợ của bản thân đến sự vô thường. Rồi mình, người thân, bạn bè mình cũng sẽ già đi, hoặc cái chết sẽ đến bất cứ lúc nào. Cảm xúc chung của chúng ta là trở nên yêu thương bản thân, yêu thương người thân, bạn bè mình hơn. Vậy thì phải tôn trọng từng phút giây của bản thân, của cha mẹ, vợ con, người thân, bạn bè khác của mình trên thế giới này. 

Điều thứ 2 nghĩ đến là sức khỏe của mình. Sau covid, có cảm giác rằng những cái chết đột ngột dễ đến với con người hơn, ko rõ là do vaccine hay do virus ảnh hưởng. Nhưng dù sao thì vẫn phải cẩn trọng hơn cho sức khỏe bản thân. Ví dụ như anh T đột quỵ có tin là anh vừa nhồi máu cơ tim, phải can thiếp. Đại khái có thể do mỡ máu cao. Đợt gần đây mình khám bị mỡ máu nhẹ, chỉ số tiểu đường, gout cũng cao hơn trung bình chút xíu. Vậy là mình phải dậy duy trì việc chạy bộ ngay lập tức. Trộm vía, càng chạy ra mồ hôi nhiều, mình thấy người thanh thoát hơn. Mấy ngày đầu chạy 5km hơi oải, nhưng sau cũng thấy dễ dàng cực kỳ...

Tóm lại, cần yêu thương bản thân hơn, bằng cách rèn giũa sức khỏe thể chất và tinh thần, để ít nhất là sống lâu hơn, mạnh mẽ hơn trong mọi sự vụ. Trân quý người xung quanh nhiều hơn và phải phấn đấu nhiều hơn để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Còn làm như thế nào thì dần dần sẽ nghĩ ra. 


Read More

Tóm tắt sách: Muốn Nên Người - Phạm Cao Tùng

Leave a Comment

    Quyển sách này mình biết từ khá lâu rồi, cũng ko nhớ rõ lắm cơ duyên gì mà mình biết đến nó nhưng mình thấy rõ rằng một quyển sách viết từ những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 cách đây gần 100 năm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến bây giờ thì thật là đáng quý.

   Nhân tiện ngày hôm nay rảnh, và muốn làm tươi mới động lực cho chặng đường sắp tới nên mình đọc lại. Và giờ thì viết lại một số tóm tắt và suy nghĩ của mình khi đọc xong.


  Đầu tiên, tác giả nói rõ rằng thành công của mỗi người trong xã hội này là trở "nên người". Mục tiêu của giáo dục là nghệ thuật giúp người ta nên người. Nên người có nghĩa là đạt được toàn diện về trí tuệ, thể chất, chí khí, tinh thần và xã hội. Không ai tự dưng nên người cả, tất cả đều do tự phấn đấu, giáo dục mà ra.

Để nên người thì phải có Luật cố gắng, tất cả mọi thứ đều chỉ đạt được khi có sự cố gắng. 

Chí khí (ý chí) là yếu tố quyết định đến sự thành công của mỗi người. Chỉ có người có chí khí mới dũng cảm vượt qua mọi giao lao thử thách, phải hành động thì mới kỳ vọng có thành công. Không quan trọng bạn là ai, xuất phát từ đâu, miễn là lúc nào bạn cũng có ý chí thì ắt sẽ thành công. Tác giả có đưa ra lời khuyên về việc luyện chí. Luyện chí bằng cách tạo những thói quen tốt, bắt đầu từ việc chinh phục những mục tiêu nhỏ và tiến lên dần đều. 

Lập sức khỏe: Mọi thứ bắt đầu từ việc có sức khỏe. Phải có sức khỏe tốt về cả thể chất và tinh thần thì mới làm được những việc lớn lao khác được.

Lập vốn: Tức là chọn 1 cái nghề. Không cần nghĩ gì xa xôi, có 1 cái nghề để có tiền nuôi bản thân, gia đình đã. Tác giả đề cập đề từ Chuyên nghiệp. Nghĩa là khi chọn một nghề phù hợp với mình thì phải đào sâu tìm hiểu nghề đó để mình thật chuyên, phải trở thành người giỏi nhất trong nghề thì mới có cơ may tồn tại trong xã hội đầy cạnh tranh được.

Lập trí: Bên cạnh từ "chuyên nghiệp" thì tác giả nói đến từ "phổ thông". Mỗi người cũng cần trang bị cho mình những kiến thức phổ thông (hiểu rộng) để ứng dụng trong xã hội.

Tác giả có chia sẻ về sự tự học. Tự học là điều kiện tiên quyết vì chỉ nó tự học mới giúp tiếp thu và tiến bộ nhanh. Tự học gồm Đọc sách, Nghe người khác chia sẻ, Quan sát sự vận hành (nhìn) và Suy ngẫm (đào sâu vấn đề). Đọc sách 5 phút nhưng suy ngẫm 1 tiếng. Thà hiểu sâu 1 cuốn sách kỹ càng còn hơn đọc nhiều sách mà ko đọng lại gì. 

Lập đức: Sống có đạo đức, tuân thủ theo pháp luật

Lập gia đình: Chăm lo toàn vẹn cho gia đình.

Lập thân: Phần cuối cùng này mình khá ấn tượng. Mục đích sống của con người là tiến hóa. Xã hội cả triệu năm của con người thực chất không nằm ngoài 2 từ "tiến hóa". Một cách đơn giản là mình hôm nay phải hơn mình của ngày hôm qua, ngày mai phải tốt hơn hôm nay. Nếu không thì sống trên cuộc đời này cũng không có ý nghĩa gì. Đi theo mục đích sống là tiến hóa, thì mỗi người cũng cần có 1 mục đích sống, mỗi người sẽ có 1 cái đích khác nhau (điểm đến). Cần phải chọn cho mình 1 mục đích rõ ràng, phù hợp và cố gắng để đạt nó.

Sống đắc lực: Trong mọi hoàn cảnh, một cách sống để thành công là sống đắc lực.Tức là cách sống sao cho mình sinh lợi nhiều mà tiêu hao ít trong mọi lĩnh vực. Anh làm nghề Y thì ngoài công việc được giao của mình, anh dành thời gian tìm hiểu chuyên sâu để phát triển hơn trong lĩnh vực của mình (chuyên nghiệp) và mở rộng tri thức bản thân ở lĩnh vực khác (phổ thôn), có thời cơ nào đó, anh sẽ có thể tìm được những cơ hội mới mà mình chưa nghĩ đến, đó là sống đắc lực.

---------

Về cơ bản, quyển sách đem lại cho mình 1 số keyword quan trọng để mình suy ngẫm thêm:

- Nên người: Toàn vẹn về Thể chất, tri thức, đạo đức, chí khí, tinh thần, xã hội.

- Giáo dục là nghệ thuật giúp một người trở nên "nên người"

- Luật Cố gắng

- Chí khí luôn là yếu tố quan trọng nhất

- Chuyên nghiệp và Phổ thông

- Tự học: Đọc sách, Nghe, Nhìn, Nghĩ

- Tiến hóa - Mục đích sống

- Sống đắc lực





Read More

Tìm hiểu về Nho giáo (Khổng giáo)

Leave a Comment

NHO GIÁO


- Khái niệm.


- Nguồn gốc của Nho giáo.


- Tôn chỉ của Nho giáo.


- Học thuyết của Nho giáo:


+ Hạ học.


+ Thượng học.


- Triết lý của Nho giáo:


          + Nhân Sinh quan.


          + Vũ Trụ quan.


- Kinh điển.


- Tiểu sử của Đức Khổng Tử.


- Các Chi phái.


- Sự Giáo dục.


- Nho giáo VN qua các triều đại.


- Phần kết.


  


1. Khái niệm


NHO: theo Hán tự, do chữ Nhân và chữ Nhu ghép lại. Nhân là người, Nhu là cần dùng.


Nho là hạng người luôn luôn được cần dùng đến để giúp ích cho nhân quần xã hội biết cách ăn ở sao cho hợp với lòng người và lẽ Trời. Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời.


Như vậy, Nho là những hạng người học thông đạo lý của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp với lòng người. Sách Pháp Ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”. Nghĩa là: Người biết rõ cả Thiên văn, Địa lý, thì mới gọi là Nho. Phàm những người Nho học thì chuyên về mặt áp dụng thực tế, chớ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ Phật giáo hay Lão giáo, chỉ biết xuất thế, lo tu độc thiện kỳ thân.


GIÁO: Dạy, tôn giáo, một mối đạo.


NHO GIÁO là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội. Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :


- Về Tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và Người tương quan với nhau.


- Về Thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.


- Về Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.


Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn giáo rất cao minh của nhân loại, đã phát huy ra từ xưa tới nay. Tuy rằng người ta đem ra thi hành không được hoàn toàn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc cái tinh thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quí trọng đặc biệt.


2. Nguồn gốc của Nho giáo


Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở nước Tàu. Thuở đó, vua Phục Hy, là một Thánh Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh. Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết được lẽ Âm Dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái, cắt nghĩa sự biến hóa của Trời Đất để làm nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối của văn tự về sau này.


Vua Phục Hy lại còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm lấy tơ làm quần áo, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó mới có danh từ gia tộc. Sau, đến đời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế), mới chế ra áo mão, và sai Ông Thương Hiệt chế ra chữ viết.


Đó là khởi thủy của Nho giáo, thành hình do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất. Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời thì phải chết. Nho giáo đã giúp nước Tàu thời Thượng cổ được hòa bình, dân chúng trên thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc. Tiếp theo đến đời nhà Châu, vua Văn Vương và con của Ngài là Châu Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho giáo, diễn giải Kinh Dịch do Phục Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự.


Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, có Đức Khổng Tử ra đời. Đức Khổng Tử chỉnh đốn và san định kinh sách, phục hưng Nho giáo, tạo thành một giáo thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng đáng đứng ngang hàng với Lão giáo và Phật giáo. Đức Khổng Tử được xem là Giáo Chủ Nho giáo.


Đạo Nho, kể từ khi Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau được các vị Thánh nhân như Tử Tư, Mạnh Tử, phát huy đến độ rực rỡ, rồi sau đó dần dần suy tàn theo thời gian, vì không có bậc tài giỏi nối tiếp xiển dương, cuối cùng trở thành một môn học từ chương dành cho sĩ tử leo lên đường hoạn lộ. Cái tinh túy của Nho giáo đã bị vùi lấp và Nho giáo được sử dụng một cách lệch lạc theo ý riêng của kẻ phàm trần.




3. Tôn chỉ của Nho giáo


Tôn chỉ của Nho giáo gồm:


- Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể.


- Trung Dung.


3.1. Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể


Theo quan niệm của Nho giáo thì Con người sinh ra đã bẩm thụ cái Lý và cái Khí của Trời Đất, tức là cùng với Trời Đất có thể tương liên tương cảm và tương ứng nhau được. Sự tương cảm ấy lúc nào cũng có, nhưng khi ta để cho lòng tư dục dấy lên mạnh mẽ, chỉ biết tính toán để làm lợi riêng cho mình thì cái tinh thần bị rối loạn đi, cái trực giác trở nên ám muội, nên cái cảm ứng ta không biết được.


Nhưng nếu ta biết đè nén lòng tư dục, giữ cho lúc nào cũng có thái độ điều hòa, thì trực giác trở nên mẫn huệ, biết được các điều sâu xa bí ẩn, tức là tương cảm được với Trời. Trời sinh ra con người và vạn vật, nên Trời có gì thì con người có nấy, nên gọi Trời là Đại Thiên Địa, và con người là Tiểu Thiên Địa. Trời và người đồng thể nên tương liên tương cảm với nhau là điều dĩ nhiên.


3.2. Trung Dung


Trung là không lệch về phía nào, Dung là không thay đổi. Trung là đường chính trong thiên hạ, Dung là nhất định trong thiên hạ. Vậy, Trung Dung là không lệch về phía nào, luôn luôn giữ thái độ dung hòa, không thái quá, cũng không bật cập, trong quan hệ đối với người hay xử lý các việc.


Vũ trụ và vạn vật luôn luôn biến hóa theo lẽ điều hòa và tương đối, lưu hành mãi mãi không lúc nào ngừng nghỉ. Thiên đạo đã không cố định thì việc đời có gì là cố định? Vậy ta cứ tùy thời mà hành động, miễn sao giữ được sự điều hòa và trung chính. Làm việc gì cũng phải lấy Trung Dung làm căn bản, tức là không thái quá, cũng không bất cập, luôn luôn thích hợp với Đạo Trung hòa của Trời Đất.


Đức Khổng Tử đem cái tôn chỉ ấy lập thành một Nhân sinh triết học, tức là một nền luân lý rất hòa nhã, êm ái, làm cho người ta sống thư thái vui vẻ, không buồn bã lo sợ. Những điều: Hiếu, Nghĩa, Trung, Tín, cũng đều do đó mà ra cả.


4. Học thuyết của Nho giáo


Học thuyết của Nho giáo tóm gọn trong 3 điều sau đây:


- Sự biến hóa của vũ trụ quan hệ đến vận mạng của nhân loại.


- Luân thường đạo lý trong đời sống xã hội.


- Lễ Nhạc trong việc tế Trời Đất, Quỉ Thần và Tổ Tiên.


Đó là những điều căn bản xác định Nhân sinh quan và Vũ trụ quan của một nền tôn giáo. Do đó, ta có thể nói rằng, trước thời Đức Khổng Tử, chỉ là Nho học, nhưng sau thời Đức Khổng Tử, Nho học được Ngài hoàn chỉnh, trở thành một tôn giáo hẳn hoi, gọi là Nho giáo, giống như Phật giáo, Lão giáo, hay Thiên Chúa Giáo.


Đứng về phương diện tôn giáo, học thuyết của Nho giáo được chia làm 2 phần rõ rệt:


- Hạ học.


- Thượng học.


4.1. Hạ học


Hạ học là cái học thuộc về Hạ thừa, làm căn bản cho Thượng thừa, là cái học cụ thể về những điều quan hệ đến cuộc sống của con người một cách thiết thực. Chủ yếu Hạ học là dạy về Nhân đạo. Không có một nền tôn giáo nào dạy về Nhân đạo một cách kỹ lưỡng và sâu sắc bằng Nho giáo. Sau đây là một số điểm chính:


- Quân tử, Tiểu nhân.


- Tu thân.


- Công bình, Bác ái.


- Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức.


- Lễ Nhạc.


- Chính danh định phận.


4.1.1. Quân tử - Tiểu nhân


Nho giáo chia những người trong xã hội làm 2 hạng: Quân tử và Tiểu nhân.


- Quân tử là người có đức hạnh hoàn toàn, nhân phẩm cao quí, chăm lo Đạo Thánh Hiền để sửa mình, dẫu nghèo khó cũng không làm điều trái đạo.                                             


- Tiểu nhân thì hoàn toàn trái ngược, kẻ tiểu nhân có chí khí hèn hạ, tham danh cầu lợi, miệng nói nhân nghĩa mà trong lòng tính chuyện bất nhân, dù giàu có nhưng tinh thần vẫn đê tiện.


Người Quân tử bao giờ cũng tòng Thiên lý, cho nên tâm tính quang minh, thích làm việc nghĩa, càng ngày càng cao thượng; kẻ Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, chí khí thấp thỏi, nên luôn luôn bị vật dục khiến sai, chỉ biết cái lợi riêng cho mình, càng ngày càng thêm hèn hạ.


Quân tử thì trung dung vì hiểu được cái thấp cái cao, Tiểu nhân thì phản trung dung vì chỉ biết tư lợi. Quân tử chỉ cầu ở mình, nên cái đức càng ngày càng sáng thêm; Tiểu nhân thì mong cầu ở người, nên cái lòng dục càng lúc càng buông xổng thêm ra. Học làm Quân tử thì phải thành thật, không bao giờ tự dối mình mà làm hại cái biết của mình.


Muốn học cho đạt cái đạo của người Quân tử thì phải theo đúng như lời Đức Khổng Tử dạy: “Dốc lòng tin, ham sự học, giữ cho vững, dẫu chết cũng không thay đổi, làm cho cái Đạo hay hơn lên. Không vào nước đã nguy, không ở nước có loạn. Đời có Đạo thì ra làm mọi việc, đời không Đạo thì ẩn mà sửa mình. Nước có Đạo mà mình nghèo và hèn là xấu hổ; nước không Đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ.”


4.1.2. Tu thân


Người Quân tử cần phải học hỏi luôn luôn để biết mà sửa mình. Muốn sửa mình (Tu thân), trước hết phải giữ cái Tâm cho chính, cái Ý cho thành, rồi mới Cách Vật, Trí Tri được. Do đó, Nho giáo đưa ra Bát Điều Mục, tức là 8 bước thực hành theo thứ tự sau đây:


- Cách vật: Cách ly sự vật để quan sát cho rõ ràng.


- Trí tri: Nghiên cứu để biết tận gốc rễ của sự vật.


- Thành ý: Rèn luyện ý chí thành thật dũng mãnh.


- Chính tâm: Thanh lọc tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm của vật dục.


- Tu thân: Sửa đổi những điều sai lầm của mình.


- Tề gia: Sắp đặt các việc gia đình cho đúng phép.


- Trị quốc: Cai trị dân theo đường lối chân chính.


- Bình Thiên hạ: Đem lại thanh bình và hạnh phúc cho toàn dân.


4.1.3. Tam Cương - Ngũ Thường - Tam Tòng - Tứ Đức


Đức Khổng Tử dạy về Nhân đạo :


+ Nam thì giữ Tam Cương và Ngũ Thường.


+ Nữ thì giữ Tam Tòng và Tứ Đức.


- Tam Cương: Ba Giềng mối gồm: Quân thần cương, Phụ tử cương, Phu thê cương.


+ Quân thần cương: Quan hệ vua tôi, tức là Trung: Trung với nước, trung với dân. Không nên quan niệm hẹp hòi là trung với một cá nhân ông vua hay một dòng họ vua, vì đó là ngu trung. Chỉ trung với vua khi nào gặp được vị vua sáng suốt (Quân minh thần trung), chúa Thánh tôi hiền.


+ Phụ tử cương: Quan hệ cha con, cha mẹ phải hiền, hết dạ thương con và con phải hiếu thảo với cha mẹ.


+ Phu thê cương: Quan hệ vợ chồng. Nghĩa là: xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người phụ nữ khi đi lấy chồng thì phụng sự chồng, khi chồng chết thì ở vậy nuôi con mới là người tiết hạnh.


- Ngũ Thường: Năm điều thường có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.


+ Nhân: Lòng thương người mến vật.


+ Nghĩa: Việc đối xử theo lẽ phải, biết đền ơn đáp nghĩa đối với người và vật.


+ Lễ: Thể hiện sự tôn kính và trật tự trong ý nghĩ, lời nói và việc làm.


+ Trí: Sự hiểu biết sáng suốt, phân biệt phải quấy.


+ Tín: Không gian dối, gạt gẫm.


- Tam Tòng: Ba điều phải theo của người phụ nữ: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử.


+ Tại gia tòng phụ: Ở nhà thì nghe theo lời của cha mẹ.


+ Xuất giá tòng phu: Có chồng thì phải tòng theo chồng.


+ Phu tử tòng tử: Chồng chết thì ở vậy nuôi con cho nên người, không nên tái giá.


- Tứ Đức: Bốn Đức của người phụ nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.


+ Công: Chăm lo làm công việc gia đình.


+ Dung: Chăm sóc thân thể cho tốt đẹp, sạch sẽ.


+ Ngôn: Lời nói dịu dàng, đoan chính.


+ Hạnh: Ngay thẳng, nhân ái trong mọi việc.


4.1.4. Công bằng - Bác ái


Người ta sinh ra ở đời, ai cũng bẩm thụ cái Lý và Khí của Trời Đất như nhau, nên đều chịu mệnh Trời như nhau. Như vậy, mọi người đều bình đẳng và là anh em với nhau. Một hôm, Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: Có lời nào khả dĩ thi hành được chung thân không? Đức Khổng Tử đáp: Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. (Chữ Thứ chăng! Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.) Đó là Công bình và Bác ái. Nó nằm trong cái Đạo Nhất Quán của Đức Khổng Tử: Đạo Nhân.


4.1.5. Lễ Nhạc


- Lễ


Nho giáo dùng Lễ cốt để tạo thành một tập quán Lễ Nghĩa, khiến cho người ta làm điều lành điều phải một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ. Dùng Lễ có cái hay là ngăn cản những việc xấu không cho xảy ra, còn dùng pháp luật là để trị những cái xấu đã xảy ra. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ chớ không trọng Hình phạt.


Chữ Lễ, trước tiên dùng với ý nghĩa là các hình thức cúng tế cầu Thần linh ban phước và cúng tế Tổ tiên. Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hợp với phong tục và tập quán của dân chúng trong việc Quan, Hôn, Tang, Tế. Sau nữa, chữ Lễ còn có nghĩa thật rộng, gồm cả cái quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của dân chúng cho thích hợp với cái lẽ tự nhiên của Trời Đất. Cho nên Kinh Lễ của Nho giáo nói rằng: “Lễ giả, Thiên chi tự.” Nghĩa là: Lễ là cái trật tự của Trời. Do đó, Nho giáo rất chú trọng về Lễ, và dùng Lễ vào 4 mục đích :


+ Dùng Lễ để hàm dưỡng tính tình của con người


Dùng Lễ để tạo thành một không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tập quán tốt, khiến người ta làm điều phải điều lành một cách tự nhiên mà không biết. Vậy nhờ Lễ mà con người được khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao thượng.


+ Dùng Lễ để giữ thích hợp với đạo Trung Dung


Không cho thái quá, mà cũng không cho bất cập. Nhờ vậy, thể xác và tinh thần của con người được quân bình, hành động lúc nào cũng được sáng suốt và chừng mực. Đức Khổng Tử bảo thầy Nhan Uyên (Nhan Hồi) là người đã hiểu rõ đạo Nhân hơn người là vì do Lễ. “Phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn, phi Lễ vật động.” Nghĩa là : Không phải Lễ thì chớ nhìn, không phải Lễ thì chớ nghe, không phải Lễ thì đừng nói, không phải Lễ thì chớ làm.


+ Dùng Lễ để định lẽ phải trái, tình thân sơ, và trật tự trên dưới phân minh                                                     


Nhờ Lễ mà phân biệt được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui định sự đối xử khác nhau một cách rõ rệt. Do đó không còn chỗ hiềm nghi, định rõ lẽ phải trái. Nhờ Lễ mà định được cái Chính danh. Có Chính danh mới định cái phận cho thích hợp. Do đó mà có tôn ti trật tự, phép tắc luân lý, từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự thái bình.


+ Dùng Lễ để tiết chế lòng dục                             


Dục vọng của con người thì không cùng và lúc nào cũng đòi hỏi để được thỏa mãn. Nếu không dùng Lễ để chế giảm, tất dục vọng sẽ làm con người hư hỏng. Dùng Lễ để chế giảm mà còn hướng dẫn dục vọng vào con đường cao thượng nữa. Lễ và Pháp luật đều có mục đích ngăn chặn sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có ưu điểm là nó có thể ngăn cản được những việc chưa xảy ra; còn dùng pháp luật là để trừng trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Pháp luật, tuy phải đặt ra, nhưng dùng sự giáo hóa về lễ mà ngăn ngừa sự phạm tội thì mới ưu việt.


Tóm lại, chữ Lễ trong nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về mặt giáo hóa và ngăn ngừa sự hư hỏng; còn luật pháp thì chú trọng sự trừng phạt những điều hư hỏng và phạm tội. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì, không nên làm điều gì, và tại sao như thế. Còn pháp luật thì cấm không cho làm việc này việc nọ, mà hễ vi phạm thì bị trừng phạt. Người làm trái Lễ thì bị chê cười, có tính cách trừng phạt về phương diện tinh thần; người làm trái pháp luật thì bị trừng phạt về thể xác.


- Nhạc


Nhạc là sự hòa hợp các thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm của lòng người đứng trước ngoại vật. Hay nói khác đi, chính sự rung động trong lòng người mới tạo thành tiếng nhạc. Nhạc có thế lực quan trọng nên bậc Đế vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để cảm hóa dân chúng, khiến dân trở nên lương thiện. Sách Nhạc có viết rằng: “Nhạc là cái vui của Thánh nhân, mà có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và làm phong tục dời đổi được. Cho nên Tiên vương mới đặt ra việc dạy Nhạc.”


Nhạc cũng phải giữ cái đạo Trung Dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất cái chính, mà buồn cách mấy cũng không làm mất cái hòa. Như thế, Nhạc mới có thể điều hòa được cái tính tình của con người.


4.3.3. Sự phối hợp của NHẠC và LỄ                            


Nhạc và Lễ đều có cái chủ đích chung là sửa đổi tâm tính con người cho ngay chính, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu, nhưng mỗi bên có cách thức riêng biệt. Lễ cốt ở sự cung kính để giữ cho trật tự phân minh, Nhạc cốt ở sự điều hòa khiến cho tâm tính được tao nhã. Vậy nên có Lễ phải có Nhạc, có Nhạc phải có Lễ, để cho cái này bổ khuyết cho cái kia thì mới tạo được sự điều hòa tốt đẹp và một trật tự ổn định trong xã hội. Nhưng Đức Khổng Tử lại nói: “Nhân nhi bất nhân như Lễ hà? Nhân nhi bất nhân như Nhạc hà? “Nghĩa là: Người mà không nhân đức thì làm sao dùng Lễ được? Người mà không nhân đức thì làm sao dùng Nhạc được?


Đức Khổng Tử còn chủ trương không nghiêng về bên Lễ, cũng không nghiêng về bên Nhạc: “Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp tính tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc”. Lễ Nhạc có địa vị rất trọng yếu trong đạo trị nước và đặt ngang hàng với Hành chính và Hình pháp. “ Lễ để chỉ đạo ý chí, Nhạc để điều hòa thanh âm, Hành chính để thống nhất hành động, Hình pháp để ngăn ngừa tội ác. Lễ, Nhạc, Hành chính, Hình pháp, có mục đích cuối cùng là một, tức là thống nhất lòng dân để thực hiện một nền thạnh trị.”


Ý của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần lần, từ đời nọ truyền qua đời kia, Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sai hết. Lễ thì biến ra thêm phiền toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ đủ loại mà không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc và Lễ hướng dẫn và kềm chế nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố sâu vực thẳm.


4.1.6. Chính danh Định phận


“Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành.” Nghĩa là: Danh không chính đáng thì lời nói không xuôi, lời nói không xuôi thì việc không thành. Danh đã chính thì việc gì cũng có nghĩa lý rõ ràng của việc ấy, những điều tà thuyết không che khuất được chân lý. Danh và Phận đã được định rõ thì mỗi người đều có địa vị và bổn phận chính đáng của mình, trật tự phân minh.


 4.2. Thượng học


Thượng học thuộc về Đại thừa hay Thượng thừa, Là quan niệm về thế giới quan của Nho giáo, rất uyên áo cao viễn mà Đức Khổng Tử có nhiều điều nói rõ trong Kinh Dịch (sách căn bản về triết Lý của Nho giáo) và trong sách Trung Dung (sách Triết học bàn về Thiên đạo và Nhân đạo rất sâu xa).


Sau đây là một số điểm tiêu biểu:


- Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý.


- Thiên mệnh.


- Quỉ Thần.


- Hồn phách.


- Đạo của Đức Khổng Tử.


4.2.1. Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý


Quan điểm của Nho giáo về thế giới quan (sự hình thành vũ trụ và vạn vật) được diễn tả như sau: Khởi đầu của Vũ trụ là một khối mờ mịt hỗn độn. Trong cái Hỗn độn ấy có một cái Lý rất linh diệu cương kiện gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, ta không thể biết rõ được, nhưng khi xem xét sự biến hóa của vạn vật thì ta có thể đoán biết được cái động và tịnh của Thái Cực. Động là Dương, tịnh là Âm. Dương lên đến cực độ lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ lại biến ra Dương. Hai cái Âm Dương ấy cứ xoay chuyển tương đối, điều hòa nhau mà biến hóa sinh ra Trời Đất và vạn vật.


Đó là điểm cốt yếu của Kinh Dịch, bởi vì Dịch là biến đổi. Trong Trời Đất, không có cái gì là không biến đổi, không có cái gì là nhất định. Tất cả đều biến đổi, xoay chuyển, lưu hành khắp nơi, nhưng đều phát sinh từ một Lý duy nhất là Thái Cực. Chỉ có Thái Cực là tuyệt đối, còn tất cả đều là tương đối. Do đó, Đức Khổng Tử lấy chủ nghĩa “Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể “ làm căn bản cho học thuyết của Nho giáo.


4.2.2. Thiên mệnh


Trời là Chủ thể của cả Càn khôn Vũ trụ và vạn vật nên có cái sức mạnh bí mật điều khiển tất cả sự biến hóa và xoay chuyển trong Vũ trụ cho được điều hòa. Đó là Thiên mệnh, tức là Mệnh Trời.


Làm người phải biết mệnh Trời để nương theo đó mà sinh hoạt cho phải đạo. Nhưng con người cũng có cái tự chủ riêng 

Read More

TUYỂN DỤNG, HÃY BỎ HAI TỪ "PHỎNG VẤN"

Leave a Comment
Tôi đã đặt câu hỏi, sai lầm phổ biến nhất trong phỏng vấn tuyển dụng nhân sự là gì. Và tôi trả lời luôn là ở chính 2 từ PHỎNG VẤN. Tại sao?
Published from Blogger Prime Android App
Vì hai từ "phỏng vấn" đã làm sai bản chất của cuộc gặp gỡ giữa hai bên. Bản chất cuộc gặp gỡ này là để tìm hiểu lẫn nhau trên cơ sở BÌNH ĐẲNG, HAI BÊN CÙNG CÓ LỢI. Nó không phải là một cuộc hẹn mang màu sắc xin - cho (như xin cấp visa) để mà một bên thì hỏi (phỏng vấn), còn bên kia thì rụt rè trả lời.

Nếu hiểu đúng bản chất, tại cuộc gặp gỡ này hai bên đều có quyền hỏi để tìm hiểu về bên kia và trả lời để giúp bên kia hiểu rõ về mình. 

Đi cùng với việc hủy bỏ cái gọi là "ĐƠN XIN VIỆC" và thay bằng THƯ ỨNG TUYỂN hay THƯ DỰ TUYỂN, tôi luôn yêu cầu phòng nhân lực (HR Department) hủy bỏ luôn cái gọi là "THƯ MỜI PHỎNG VẤN" và "LỊCH HẸN PHỎNG VẤN". Thay vào đó, chúng tôi gọi là THƯ MỜI GẶP MẶT hay THƯ MỜI TRAO ĐỔI (về chức danh tuyển dụng), và xếp lịch để hai bên gặp mặt, trao đổi về chức danh và công việc đang cần tuyển dụng.

Ngay trước khi bắt đầu cuộc trao đổi, người của công ty chúng tôi cũng lịch sự và tôn trọng nói luôn với ứng viên rằng đây KHÔNG PHẢI là một cuộc phỏng vấn mà là một buổi gặp gỡ để tìm hiểu lẫn nhau và mỗi bên đều có quyền trao đổi cởi mở, thẳng thắn để giúp bên kia hiểu rõ mình hơn. 

Chính cách mở đầu câu chuyện một cách tôn trọng và cởi mở này (đối với cả ứng viên cấp thấp) sẽ gây ấn tượng tốt cho ứng viên về văn hóa công ty, giúp họ thoải mái và cởi mở hơn trong trao đổi, để nhờ đó công ty mới hiểu rõ họ hơn và họ cũng hiểu rõ công ty hơn.

Khi hai bên hiểu rõ nhau thì sự hợp tác nếu diễn ra sẽ lâu bền hơn là một bên chấp nhận miễn cưỡng dù không hiểu rõ bên kia, vì sẽ dễ "nửa chừng đứt gánh".

Là nhà tuyển dụng, bạn đừng xem mình là ở vế trên, còn ứng viên là ở vế dưới (hãy giáo dục cho bộ phận tuyển dụng hiểu rõ điều này). Hãy thể hiện sự tôn trọng, bình đẳng, vì điều đó không làm mất đi quyền lựa chọn của bạn, mà lại giúp bạn hiểu rõ ứng viên hơn, đồng thời để lại ấn tượng tốt đẹp trong họ ngay từ lần gặp mặt đầu tiên. Ấn tượng tốt đẹp này sẽ làm cho NV khi được tuyển dụng sẽ nhớ mãi, sẽ làm cho họ yêu mến và tự hào về công ty hơn. Ứng viên bị từ chối cũng có ấn tượng đẹp về công ty.

Bạn muốn NV tự hào và yêu mến công ty hơn hay muốn NV chỉ biết rụt rè và miễn cưỡng nhận việc, để rồi khi có cơ hội khác là họ biến mất?

* Lưu ý, tại cuộc gặp, chiếc ghế ứng viên ngồi cũng nên bố trí tương đương với chiếc ghế người tuyển dụng ngồi, đừng để ghế của người tuyển dụng thì cao to, còn ghế ứng viên thì thấp bé!
Read More

12 SAI LẦM KHI HỌP. HÃY LÀM NGƯỢC LẠI ĐỂ HỌP HIỆU QUẢ!

Leave a Comment

 12 SAI LẦM KHI HỌP. HÃY LÀM NGƯỢC LẠI ĐỂ HỌP  HIỆU QUẢ! (Học rồi mà không hành động thì thật lãng phí!)



80% những cuộc họp ở các công ty VN là không cần phải họp. Trong những cuộc họp thực sự cần họp, 80% lại là những cuộc họp vô bổ.

Con số này có phần chủ quan? Vâng, đúng là chủ quan vì nó được tôi thống kê và ước tính bằng sự trải nghiệm của tôi ở các cuộc họp lớn nhỏ ở nhiều doanh nghiệp Việt. Thực tế, con số có thể thấp hơn chút đỉnh, nhưng nhìn chung, rất nhiều cuộc họp ở doanh nghiệp Việt thực sự là kém hiệu quả, gây lãng phí, và góp phần giết chết doanh nghiệp. Vì sao tôi khẳng định như vậy? Đơn giản là vì các cuộc họp (thường kéo dài lê thê) ở các công ty Việt Nam luôn mắc phải một hay nhiều các sai lầm sau đây (hãy thử dùng chính công ty của mình để so sánh và kiểm chứng nhé!):

1. Không có mục tiêu cuộc họp: Cứ muốn họp là họp, không có mục tiêu, kỳ vọng rõ ràng cho cuộc họp. Cả chủ tọa lẫn người họp đều không biết họp để đi đến kết quả gì? Tôi nhắc lại, MỤC TIÊU chứ không phải mục đích. Bất kỳ cuộc họp nào cũng có mục đích, nhưng mục tiêu thì không thấy nhắc đến!

2. Không có chương trình nghị sự: Cứ triệu tập là họp, không ai biết nội dung, chương trình cụ thể là gì

3. Không có lịch báo trước: Sếp hứng lên là gọi họp. Nhiều người phải bỏ dở công việc quan trọng chỉ vì bị sếp réo đi họp. Có khi, ngày họp vài lần.

4. Không có tài liệu chuẩn bị: Khi hỏi đến vấn đề gì, mới chạy sục tìm tài liệu liên quan làm mất rất nhiều thời gian chờ đi lấy tài liệu. Mà có khi tìm không ra vì thiếu chuẩn bị trước

5. Không kiểm soát thời gian trong lúc họp: Sếp nói nhiều, huấn thị nhiều quá. Thảo luận nhảy cóc, lan man, thiếu trọng tâm. Hết giờ vẫn không giải quyết được các vấn đề quan trọng.

6. Mang laptop theo làm việc riêng khi họp. Không tập trung vào nội dung cuộc họp mà mang theo tài liệu, laptop để làm việc ngay tại cuộc họp (vụ này khá phổ biến)

7. Sa đà giải quyết những vấn đề song phương giữa 2 người, 2 phòng ban, taj các cuộc họp là đa phương (nhiều phòng ban tham dự). Vụ này hơi bị nhiều!

8. Không đúc kết và chốt laj từng vấn đề. Thảo luận nhiều nhưng không có kết luận.

9. Không có chương trình hành động cụ thể sau cuộc họp (việc gì phải làm, ai chịu trách nhiệm chính, ai hỗ trợ, thời hạn bắt đầu, kết thúc...)

10. Cuối buổi họp, không dành lấy 5-10 phút để đánh giá lại hiệu quả cuộc họp vừa qua xem có đạt MỤC TIÊU không.

11. Cuộc họp mới không quan tâm đến kết quả và tiến độ xử lý những vấn đề đã nêu trong các cuộc họp trước đó.

12. Biên bản họp không ghi tóm tắt nội dung đã thống nhất dưới dạng một kế hoạch hành động, mà “tường thuật trực tiếp” diễn biến cuộc họp - nêu tên từng người kèm theo lời phát biểu (theo kiểu anh A nói gì, chị B trả lời sao…)

Và, còn nhiều sai lầm khác làm cho các cuộc họp trở thành nỗi ám ảnh của nhiều cán bộ nhân viên.

Hãy đọc kỹ 12 sai lầm trên và hãy làm… ngược lại. Tôi tin, các cuộc họp sẽ tạo ra giá trị, góp phần làm cho hoạt động của doanh nghiệp gia tăng hiệu quả. Công ty bạn có mắc sai lầm nào trong số 12 sai lầm trên không?

========

PS: Một ngày họp của một dàn quản lý cấp cao một tập đoàn lớn có thể gây lãng phí hàng trăm, nhiều trăm triệu đồng, chỉ riêng tính tiền lương, chưa kể còn gây ách tắc công việc và phát sinh nhiều hệ lụy khác!

Read More

Tinh hoa toàn diện

Leave a Comment





Một ngày bình thường của sinh viên (tầng lớp tinh hoa học tập bậc cao) trên thế giới. 

Đời sống sinh viên ở 1 cao đẳng ĐH nước ngoài luôn xoay quanh các hoạt động sau: 

1. Trong lớp học (hình 1): sinh viên ngồi cao hơn thầy, sinh viên hỏi thầy trả lời, hỏi xong thì hết giờ. Sinh viên buộc phải đọc sách và đọc giáo trình trước khi đến lớp vì thầy chẳng giảng, chỉ trả lời câu hỏi. Học cách này sẽ rèn luyện năng lực đặt câu hỏi, tìm tòi, tự học.  

2. Hình 2: Trong thư viện, mượn sách và đọc. Tắt di động, không có đeo kè kè. Đọc sách chuyên môn và sách mình ưa thích. Thư viện là nơi gắn bó với sinh viên nhiều hơn ở nhà. Sinh viên là phải ham đọc sách. 

3. Hình 3: Học nhóm, thảo luận để tự làm dự án, các công trình khoa học, thi thố các cuộc thi này nọ. 

4. Hình 4: Đi làm thêm để kiếm tiền trang trải sinh hoạt phí, học phí chứ không xin xỏ mượn gia đình. Có thể vay nhưng tuyệt đối không lấy của bất cứ ai, kể cả cha mẹ. Làm thêm để có street smart, chững chạc, trưởng thành. 100% sinh viên phương Tây đều từng đi làm thêm, kể cả con tỷ phú. 

5. Hình 5: Toàn bộ thời gian còn lại trong ngày, các bạn chơi thể thao, tự tập thể dục. Đánh cầu lông, yoga, bóng rổ, bóng đá, hoặc tranh thủ chạy bộ. Trong ba lô luôn có bộ đồ thể thao, cứ có thời gian trống là chạy nhảy. Không có ai suốt ngày than vãn mệt mỏi. Dáng vẻ bạn nào cũng thẳng thớn, cao lớn, tràn đầy nhựa sống thanh xuân. 

Liệu sinh viên chúng ta có thể bắt chước được các bạn? Có gì quá khó không? Hà cớ gì mà sinh viên VN lại khác mọi SV các quốc gia khác trên thế giới? Không phải do nền giáo dục gì đâu, do chính các bạn cả đấy. Sinh viên thế giới chả ai chơi game, xem clip hài, comment vớ vẩn mua vui trên mạng xã hội cả. Vì nó quá tốn thời gian, lãng phí thanh xuân cho việc vô bổ trên mạng. Cũng không sinh viên nước nào ngồi trà sữa ôm ĐT, chát cười cả ngày trên ĐT cả. Thật ra nhóm này không phải tinh hoa, trình độ không đủ để học ĐH nhưng vì gia đình muốn có bằng cấp nên ép học thôi, chứ không phải học lên cao là do các bạn đam mê học. Khi có đam mê học hành và phát triển bản thân, người ta sẽ hành động khác. 

Tại sao các bạn vẫn ở nhà cha mẹ hay nhận tiền cha mẹ khi đã hơn 18 tuổi? Tại sao SV Việt Nam ra thế giới du học, đa số vẫn chỉ tập trung vô mỗi chuyện học mà không giống sinh viên các nước khác? Vì sao cứ bé khoẻ bé ngoan từ nhỏ ăn sâu vô nếp nghĩ và không thay đổi được, cứ phụ thuộc và ỷ lại người khác, giải thích mọi thứ là do người khác, do hoàn cảnh chứ không phải do bản thân mình?

P/S: Học cái hay của các nước giàu có văn minh phồn vinh để tự sửa mình, chứ không phải để tự ái (tự mình yêu mình, thể hiện sự tự yếu đuối nhưng tìm cách phản vệ để tăng giá trị).

Read More

Thói quen viết

Leave a Comment





Mấy hôm nay mới có thời gian sửa lại giao diện và tư duy lại 1 chút về blog mà lâu nay mình bỏ quên. Tính ra bài đăng gần nhất cũng đã hơn 1 năm, giật mình nhận ra 1 năm qua mình chưa viết 1 bài nào. 

Cách đây mấy tuần, mình vừa tìm hiểu về Phật pháp và đọc bài của 1 người mà mình khá quý (TGG - ông này không liên quan gì Phật giáo), có 1 nhận định rất đúng mà mình nghiệm ra: Chúng ta nên sống hướng về phía bên trong nhiều hơn trước khi hướng ra bên ngoài. Trong khi chúng ta hướng quá nhiều thời gian, công sức ra bên ngoài như đi làm công ăn lương phục vụ xã hội, giao tiếp với mọi người (cả gia đình và bạn bè) hay là đi làm từ thiện,... thì những lúc đó bản thân nội tâm của chúng ta vẫn chưa hoàn thiện, trong trẻo, tĩnh lặng để đủ lực hướng ngoại. Hậu quả là chúng ta vừa ít khi đạt được những kết quả tốt của việc hướng ngoại (công việc vẫn chưa trôi chảy, các mối quan hệ vẫn bất ổn hay làm từ thiện không đem lại kết quả,...) vừa không đạt được kết quả trong nội tâm. Cũng giống như câu chuyện "vác tù và hàng tổng" vậy. Và đại ý của nhận định này là chúng ta nên giải quyết những bài toán bên trong bản thân mình trước, giải quyết sâu xa và triệt để mọi vấn đề của nội tâm, để có 1 sự tĩnh lặng, an lạc nhất định để đối mặt và xử lý các vấn đề quan hệ bên ngoài, từ công việc, gia đình, bạn bè, cống hiến xã hội,... Mình hiểu nôm na là như vậy.

Vậy thì làm gì với nội tâm chúng ta để đạt trạng thái an lạc, tĩnh lặng? Đương nhiên đó là 1 chặng đường xa, và muốn đạt được thì ta phải "tu". Một trong những việc đó là hãy đối diện thường xuyên với bản thân mình, để lắng nghe bản thân mình đang ở đâu, muốn gì, và nên làm gì,... Và đương nhiên, chính việc ngồi đối diện với bản thân trên cái Blog này thực sự rất cần thiết.

Mình ngẫm lại, ngày xưa, mỗi lần ngồi suy ngẫm và soạn thảo từng dòng bài viết để đăng lên Blog, mình thấy có sự gì đó lớn lên của bản thân mình. Nó ko rõ ràng lắm (vì chắc mình viết không đều), nhưng chắc chắn là có sự lớn lên mà chính bản thân mình cũng không nhận ra. Để rồi hôm nay, sau hơn 1 năm ko động chạm gì bàn phím, mình đã thấy mình lớn hơn khi soạn ra những dòng này. Và hi vọng, mình sẽ đều tay hơn. Càng viết nhiều, càng chiêm nghiệm nhiều, mình sẽ tường minh mọi suy nghĩ của mình hơn.

Ngoài ra thì còn có 1 lý do nữa để mình sửa lại thói quen viết của mình. Đó mình nghĩ đến 5-10-20 năm nữa, khi mình già đi, mình sẽ đọc lại những dòng này, mình sẽ hiểu hơn về những suy nghĩ của tuổi trẻ, cũng như là 1 cách để hiểu hơn về con cháu mình, để dạy chỗ chúng nó. Hi vọng đọc đến dòng này, con của bố, cháu của ông sẽ hiểu tại sao lại nên viết Blog.

Hà Nội, 4h17 26/03/2022,

Nguyễn Quang Huy



Read More

GIÁ TRỊ (VALUE)

Leave a Comment



Mọi tương tác giữa người với người, bất luận tính chất, luôn phụ thuộc vào yếu tố GIÁ TRỊ (VALUE).

Dù muốn dù không, dù thừa nhận hay không, dù ý thức hay không, thì con người sẽ luôn có xu hướng BỊ THU HÚT bởi những đối tượng mà họ cho là có NHIỀU GIÁ TRỊ, càng nhiều càng tốt.

Và hệ quả là, với những đối tượng có nhiều giá trị TRONG MẮT CHÚNG TA, sẽ luôn được chúng ta ưu tiên dành cho nhiều nguồn lực của mình nhất, ví dụ như:

- Tiền bạc & vật chất

- Thời gian

- Năng lượng

- Sự quan tâm & chăm sóc (thể chất lẫn tinh thần)

- Sự tôn trọng & kính trọng

- Vân vân

Ngược lại, khi một đối tượng được chúng ta cho là có ÍT GIÁ TRỊ (hoặc hoàn toàn không có giá trị) nào, chúng ta sẽ không bị họ thu hút (tất nhiên rồi), và vì thế chúng ta sẽ không ưu tiên dành cho họ những nguồn lực nói trên.

Cho nên, trong cuộc sống thường nhật, đại đa số (nếu không muốn nói hehe tất cả) những trường hợp chúng ta thấy mình không được một đối tượng nhất định nào đó dành cho thời gian / sự quan tâm / sự tôn trọng... mà chúng ta mong muốn, thì điều đó chỉ có một ý nghĩa DUY NHẤT là:

Trong mắt họ, GIÁ TRỊ (value) của chúng ta quá ít.

Và ngược lại cũng thế, đôi khi trong cuộc sống bạn sẽ thấy mình giãn dần sự quan tâm chú ý cho một đối tượng nào đó, mà có thể trong quá khứ bạn và họ từng rất gần gũi thân cận nhau, thì đó cũng chỉ vì từ trong vô thức, họ không còn nhiều (hoặc hoàn toàn không còn) GIÁ TRỊ trong mắt bạn. 

Read More

Hướng tới 2021

Leave a Comment

 Hôm nay là ngày cuối cùng của năm âm lịch Canh Tý (2020) tôi ở Hà Nội, sáng mai tôi sẽ đi về quê hòa nhịp không khí Tết năm Tân Sửu cùng bao người dân khác trên mảnh đất hình chữ S này ( giữa mùa Covid thứ 2 ở Việt Nam). Tôi viết mấy dòng này để kỷ niệm 1 năm 2020 đáng nhớ và hướng tới năm 2021 trọn vẹn, thúc đẩy mình hoàn thiện hơn.

***

Năm 2020 trôi qua với nhiều trở ngại bởi dịch Covid 19, ảnh hưởng đến toàn xã hội, về hầu hết các lĩnh vực. Nhưng đối với tôi, thì Covid cũng không quá ảnh hưởng, về hầu hết mọi mặt. Những gì xảy ra trong 2020 như những điều đã được dự báo trước mà tôi đã từng suy nghĩ, mường tượng nhận ra trong những năm trước đó.



Thành tựu lớn nhất của tôi trong năm 2020 là trở thành trụ cột của một gia đình nhỏ cùng người vợ đáng mến của mình. Sau bao năm lông bông, khi trở thành một người chồng, và sắp tới là một người cha, tôi cảm thấy mình đã trở nên một con người có trách nhiệm hơn. Giờ đây tôi không chỉ sống và làm việc cho riêng mình nữa, mà sống và làm việc vì người vợ, người con và đương nhiên là ông bà, bố mẹ, em trai của mình. Nhiều khi độc thân người ta vẫn hay nói câu trên, nhưng để hiểu và chiêm nghiệm được thì đúng là chỉ có việc lập gia đình mới hiểu được điều đó. Con xin cảm ơn bố mẹ hai bên đã tác thành hôn sự, Anh xin cảm ơn người vợ đã đến bên anh, Bố xin cảm ơn đứa con trai sắp chào đời!


Năm 2020 đánh dấu một bước ngoặt khá lớn trong sự nghiệp kinh doanh Dược của tôi, khi mà hầu hết các mục tiêu đề ra của năm đều không đạt được. Khẩu hiểu "Bứt phá 2020" đưa ra từ đầu năm đã không thành hiện thực. Nhưng trong con người tôi có phần nào đã thực sự hiểu hơn về bản chất của việc kinh doanh, của một nhà quản trị, của một người Dược sĩ. 2021 với những kế hoạch đề ra, tôi tin rằng, với sự hoàn thiện dần của bản thân (nhờ những kiến thức và trải nghiệm), sẽ là một năm với nhiều thành công.



Sự nghiệp Hướng đạo trong năm 2020 cũng là những bước đi lên chậm rãi, dần dần tôi cũng hiểu được những giá trị của hướng đạo. Và với những người bạn, người anh em, với những quyển sách ở trong thư phòng, tôi cũng sẽ hoàn thiện hơn để trở thành một Trưởng Hướng đạo xuất sắc, có thể giúp cho nhiều em nhỏ trở nên hoàn thiện, tháo vát hơn.

Năm 2021 cũng sẽ là năm tôi tìm lại những giá trị cốt lõi sâu xa trong con người, để tôi dần "giác ngộ". Mặt trời chân lý đã chói qua tim tôi rồi, việc của tôi là tu thân và chiêm nghiệm vẻ đẹp của cuộc đời, để hoàn thiện bản thân và làm được nhiều việc giúp đời, giúp người hơn.

Cảm ơn Canh Tý 2020 với nhiều niềm vui, thách thức

Chào Tân Sửu 2021 với đầy ắp thành tựu,

HUYDELL

07/02/2021 ( 26 Âm lịch Canh Tý)


Read More